Cùng với lịch sử mở rộng biên cương và bảo vệ Tổ quốc lâu đời. Võ cổ truyền đã là một đặc trưng không thể thể thiếu khi nói đến văn hóa Việt Nam. Các môn võ này là di sản văn hóa truyền thống của Việt Nam, do người Việt Nam sáng tạo hoặc Việt hóa từ các môn võ thuật vay mượn trên toàn thế giới để phù hợp với thể trạng, văn hóa, triết lý của người Việt Nam.

Trải qua hàng nghìn năm, Việt Nam đã xây dựng nên nền võ thuật cổ truyền toàn diện. Với đầy đủ các mặt liên quan đến y học ( võ thuật), đạo đức ( võ đức), âm nhạc ( võ thuật), áo dài ( võ phục)…

vo-co-truyen

Triết lý cơ bản của võ thuật Việt Nam là lấy yếu làm mạnh; lấy thiểu số chống lại đa số; lấy thiếu so với chiều dài; đòn tấn công đơn giản nhưng nguy hiểm, hiệu quả, nhanh nhẹn và khó lường; lối phòng thủ vô cùng kín đáo, chặt chẽ và có tính thực chiến cao.

Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu thêm về nền văn hóa đáng tự hào này của Việt Nam qua bài viết này nhé!

Lịch sử Võ cổ truyền Việt Nam

Võ ta là tên gọi ban đầu mà người ta dùng để nói về các môn võ thuật của Việt Nam. Nó được người Pháp gọi là Annammite (Võ An Nam) bởi người Pháp hay môn võ Việt Nam ( Võ Việt Nam) bởi người Mỹ. Năm 1991, Võ ta được Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam đổi thành Võ cổ truyền Việt Nam.

Trở lại quá khứ, ở Việt Nam, khi Pháp đánh chiếm Đại Nam. Các môn phái Võ cổ truyền bị thực dân Pháp cấm đoán. Vì những người đứng đầu phong trào khởi nghĩa chống Pháp đều là những người tinh thông võ Việt.

Khoảng năm 1925, Võ cổ truyền được khôi phục cùng với các môn võ nước ngoài du nhập vào Việt Nam như Quyền Anh, Thiếu Lâm… Trong thời kì này, nhiều võ sư huyền thoại đã để lại danh tiếng.

Tư vấn học bơi và đăng ký học bơi tại HCM, vui lòng liên hệ: Hotline: 0762.319.319 hoặc Facebook: /swimtobelive

Trước năm 1945, tên tuổi của Tứ Đại Sư Bãi-Múa-Cát-Quế đã được nhiều người biết đến. Họ đã đào tạo ra không biết bao nhiêu thanh niên yêu nước. Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương, tạo nên truyền thống thượng võ rộng khắp nơi năm châu.

Sau năm 1945, ông Quế có các đệ tử quý tộc như Nguyễn Văn Quý; Đặng Văn Hinh và Giáo sư Tiến sĩ Đặng Quang Lương. 3 vị sư phụ còn lại trong Tứ đại danh sư được gọi là ”Tam Nhựt”( ba mặt trời) gồm Hàn Bái, Ba Cát, Bảy Múa . Họ được vinh danh vì Võ cổ truyền Việt Nam trong thời kỳ này.

Cho đến khi người Pháp rời Việt Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền nam Việt Nam. Tiếp tục duy trì việc khôi phục võ thuật Việt Nam dưới sự lạnh đạo của tổng hội Võ thuật Việt Nam ( VABA). Và Tổng hội Võ sư khác được mệnh danh danh là Tam Nguyệt ( ba vầng trăng ). Có công phục dựng và phát triển nền võ thuật Việt Nam, gồm: Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai.

Tuy nhiên, tại miền Nam Việt Nam năm 1960. Một nhóm võ sĩ Nhu Đạo do võ sư Phạm Lãi cầm đã tham gia đảo chính Ngô Đình Diệm đã bị đánh bại. Vì vậy, từ năm 1960 đến năm 1963. Ngô Đình Diệm tiếp tục cấm các đoàn võ thuật phát triển ( trong đó có võ Việt Nam).

Năm 1964, các môn võ thuật tiếp tục hoạt động, trong đó có võ thuật Việt Nam. Thời kỳ này, võ cổ truyền phát triển mạnh mẽ không kém các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Hong kong, Đài Loan, Lào, Campuchia… Bốn võ sư: Từ Thiện-Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh đã được vinh danh là người đào tạo ra nhiều võ sư ưu tú cho làng võ Việt Nam. Đặc biệt là những người đã mang về chiến thắng cho Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Họ đã được tặng Bằng khen vì đã có thành tích vẻ vang cho đất nước. Từ đó, giới võ thuật gọi bốn vị võ sư này là Tứ Tử. (bốn ngôi sao sáng), tiếp bước các lớp ”Tam Nhứt” và ”Tam Nguyệt” trước đây của họ trong việc khôi phục và phát huy truyên thống võ thuật Việt Nam.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, võ thuật Việt Nam ngừng phát triển một thời gian do tình hình trật tự an ninh.

Năm 1979, trước sự kiện quân đội Trung Quốc và quân Khmer đỏ tấn công Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã khôi phục hoạt động võ thuật, trong đó có Võ cổ truyền Việt Nam, nhằm tập hợp thanh niên rèn luyện tinh thần bất khuất, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước.

Sau đó, các liên đoàn võ thuật được thành lập để quản lý phong trào võ thuật. Trong đó có Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam ( năm 1991). Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà từ đó đến năm 2007, võ thuật Việt Nam. Vẫn chưa được quan tâm như các môn võ khác. Có tính chất thi đấu quốc tế như Taekwondo, Judo, Karatedo, Wushu, Pencak silat, Boxing, Vovinam…

Bảo tồn và phát triển Võ cổ truyền Việt Nam. Góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến. Đậm đà bản sắc dân tộc, có vai trò quan trọng trong phát triển Thể dục thể thao nước nhà. Chính vì vậy, ngày 3/1/2014, bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án ”Bảo tồn và phát triển võ cổ truyền Việt Nam đến năm 2020”.

Các môn phái Võ cổ truyền Việt Nam

Theo các chuyên gia, võ cổ truyền Việt Nam bao gồm 5 môn phái.

1. Môn phái thứ nhất: Tổ Hà Thanh ( Miền Bắc)

Là kinh đô của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Võ thuật Hà Thanh và các tỉnh lân cận phát triển qua các cuộc thi ”đấu võ”. Nơi đây hình thành nhiều môn phái võ thuật đa dạng như Thiên Môn Đạo, Thăng Long Võ Đạo, Nam Hồng Sơn, Nhất Nam Hỏa Quyền, Thanh Phong Võ Đạo, Việt Võ Đạo,…Các võ sư Trần Tiến, Trần Công, Trần Hưng Quang… là các những tên tuổi lừng danh như minh chứng sống động trong làng võ Hà Thanh.

Ngoài ra, trong danh sách không thể thiếu môn Vật cổ truyền. Có nguồn gốc từ Bắc Ninh – Bắc Giang ( Kinh Bắc), Hà Tây ( Hà Nội ngày nay), Hải Phòng, Hà Nam… Cho đến ngày nay, vật cổ truyền Việt Nam đã góp mặt những đồ vật nổi tiếng trong đấu trường quốc tế như Nguyễn Thị Lụa, Hà Văn Hiếu… Mới đây, tại Sea Games 30 tại Philippines, các đô vật Việt Nam đã giành được cả 12 HCV.

2. Môn phái thứ hai: Tổ Bình Định ( miền trung)

Bình Định là cái nôi của võ thuật miền Trung gắn liền với triều đại Tây Sơn ( 1778 – 1802). Trong 18 ngày thế kỷ, một số võ sư nổi tiếng từ miền Bắc Việt Nam. Và Trung Quốc di chuyển đến định cư ở khu vực này và dạy võ thuật cho người dân địa phương. Từ đó đến nay, đoàn Bình Định gồm nhiều võ phái Bình Định và các vùng lân cận như: Roi Thuận Truyền, An Thái, An Vinh và các loại võ do gia đình hoặc các võ sư truyền dạy như Tây Sơn Nhạn, Thanh Long võ thuật, Bình Định Sa Long Cường, Bình Định võ thuật, Tân Sơn Bạch Long, Tây Sơn Thiếu Lâm, Bình Định Gia, Tiên Long Quyền Đạo… Ngoài vùng đất Bình Định, các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên đang cũng là cái nôi của nhiều môn Võ cổ truyền đặc sắc, như Tân khánh Bà trà tại Khánh Hòa, Tân Gia Quyền tại Quảng Ngãi. Một ví dụ điển hình cho những người đã học Tân Gia Quyền từ nhỏ và áp dụng thành công tuyệt chiêu của môn này trong thi đấu Muay Thái, đó là Nguyễn Trần Duy Nhất – võ sĩ thi đấu hạng Flyweight Muay Thái tại ONE Championship.

3. Môn phái thứ ba: Tổ phương Nam ( Nam Bộ)

Võ thuật miền Nam xuất hiện cùng với quá trình mở cửa. Và giải quyết của Việt Nam trong 18 ngày và 19 ngày thế kỷ. Sau khi dừng chân ở duyên hải Nam Trung Bộ. Các chúa Nguyễn tiếp tục mở mang lãnh thổ vào Nam và di dân từ Quảng Nam, Đà Nẵng, Quy Nhơn vào khai khẩn đất hoang ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều võ sư nổi tiếng ở miền Nam được so sánh với ”Tam Nhất”;”Tam Nguyệt” và ”Tử Tư”. Nhiều võ sĩ miền Nam đã tham gia thi đấu. Và giành chiến thắng trước các võ sư đến từ các nước láng giềng như Campuchia, Lào, Thái Lan. Nguồn gốc đa dạng của người Việt ở phương Nam đã tạo nên các hệ thống võ thuật phương Nam. Với nguồn gốc phong phú, pha trộn từ các nhóm Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng bằng sông Hồng. Và cả các môn võ có nguồn gốc từ Trung Quốc (như võ Thiếu Lâm ), võ Chăm, võ Cao Miên (Campuchia). Một số môn phái nổi tiếng ở miền Nam bao gồm Tân Khánh Bà Trà, ,Thất Sơn Quyền ( An Giang), Âm Dương Võ Phái, Kim Kê, Thanh Long Võ Đạo…

4. Môn phái thứ tư: Các môn phái có nguồn gốc từ Trung Quốc

Sự giao lưu và ảnh hưởng lâu đời từ Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Đã tạo nên những võ đường do các võ sư người Hoa hoặc người Việt truyền dạy tại Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các hệ thống hình thức đã ít nhiều. Được điều chỉnh để phù hợp với thể chất và văn hóa của người Việt Nam. Danh sách các môn phái có xuất xứ từ Trung Quốc tại Việt Nam chưa đầy đủ bao gồm: Bắc Ma Sơn, Lâm Sơn Động, Phất Gia Quyền, Không Động, Vĩnh Xuân Quyền (Việt Nam), Thiếu Sơn Phất Gia, Thiếu Lâm Long Phi, Thiếu Lâm Bắc Truyền Thiên Mục Sơn…

5. Môn phái thứ năm: Võ Việt Kiều

Theo chân người Việt trên khắp thế giới, nhiều môn võ Việt Nam đã du nhập ra nước ngoài. Đặc biệt là các nước phương Tây như Pháp và một số nước Châu Âu, Châu Mỹ, Canada. Có 22 võ đường có gốc gác Võ thuật Việt Nam tại Pháp, và có tới 30.000 võ sinh đang theo học. Một số môn ở Pháp được gọi là ”cái nôi của võ Việt Nam ở nước ngoài” như võ Cửu Long, võ Đại Việt, Nam Hổ Quyền, Trung Hoa Phái…

Theo ước tính hiện nay có khoảng 400 trung tâm huấn luyện, câu lạc bộ. Với 900 võ sĩ. 1 triệu tín đồ tại 45 quốc gia trên toàn thế giới.

Liên đoàn phấn đấu đến năm 2030 phát triển võ cổ truyền Việt Nam lên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Các đặc điểm chính của võ cổ truyền Việt Nam

– Thường dùng trong chiến trận, chống ngoại xâm, chinh phục thiên nhiên hoang dã, săn hổ, lợn rừng, bảo vệ nhà cửa, làng mạc, chống cướp của.

– Phù hợp với nhiều dạng địa hình.

– Thực tế, linh hoạt.

– ”Di công vi thủ, tập kích, tập kích ” – tập trung bò sát đất, dồn ép đối thủ ngay lập tức rồi tung đòn quyết định, rất phù hợp với thể hình nhỏ con của Việt Nam.

– Tập luyện thuần thục phải hòa mình với thiên nhiên. Để lấy khí trong lành nhằm tăng khí công trong cơ thể thì đòn đánh sẽ mạnh hơn.

Trang phục, thắt lưng & cấp độ

Đai vàng của Vominam tượng trưng cho nội tâm ”sâu sắc” của võ thuật và triết lý. Một người mặc cái này với một hoặc nhiều sọc được coi là người hướng dẫn.

Trang phục của vận động viên võ thuật cổ truyền tại các giải quốc gia

– Võ phục màu đen, áo có cổ, quần không có cặp;

– Huy hiệu Võ cổ truyền Việt Nam trên ngực trái áo;

– Tên đơn vị ( tỉnh, thành phố, ngành) đứng sau.

Trang phục của trọng tài

– Quần tây trắng, áo sơ mi trắng ngắn tay (dài tay mùa đông) không có cầu vai, túi áo không có nắp;

– Huy hiệu Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam trên ngực trái áo;

– Nơ đen, thắt lưng đen, giày trắng đế mềm.

Thắt lưng và màu sắc

– Thắt lưng được làm bằng vải mềm, khổ từ 6 đến 8 cm, thêu chữ ”Nghệ thuật truyền thống Việt Nam”.

– Màu đai của Võ cổ truyền Việt Nam. Được chia thành 5 màu theo đẳng cấp và xếp thứ tự từ thấp đến cao như sau:

a) Đai đen

b) Vành đai xanh

c) Đại đỏ

d) Đai vàng

e) Đai trắng

Các cấp độ

Chương trình huấn luyện của Võ cổ truyền Việt Nam được chia thành 18 cấp và 6 cấp như sau:

1- Võ sinh: từ 1 cấp đến cấp 8.

2- Hướng dẫn: từ cấp 9 đến cấp 11.

3- Huấn luyện viên sơ cấp: cấp 12 lên bậc 14

4- Huấn luyện viên trung cấp: từ bậc 15 đến bậc 16 (từ 20 tuổi trở lên).

5- Huấn luyện viên trung cấp: cấp 17 ( từ 25 tuổi trở lên).

6- Master: cấp 18 ( từ 27 tuổi trở lên).

Cho đến nay, Việt Nam đã tổ chức nhiều liên hoan, hội thi quốc tế về võ cổ truyền Việt Nam. Trong đó có hai giải Vô địch thế giới Võ cổ truyền Việt Nam (2016 và 2018). Và gần đây là Giải vô địch thế giới lần thứ nhất về Võ cổ truyền tại Marseille, Pháp (tháng 5 năm 2019). Thu hút hàng nghìn vận động viên, võ sư, nhà nghiên cứu võ thuật trên toàn thế giới.

Rõ ràng, võ cổ truyền Việt Nam không đơn thuần là những môn võ nhằm rèn luyện kỹ năng. Thể lực cho con người, nâng cao khả năng tự vệ, hướng tới sự hài hòa về thể chất và tinh thần của con người. Việc luyện tập võ cổ truyền còn khơi dậy lòng yêu nước. Tự hào dân tộc, tinh thần thượng võ và nhân văn của người Việt Nam.

Vì vậy, việc nghiên cứu và bảo tồn các môn phái võ thuật. Chắc chắn có vị trí hết sức quan trọng góp phần kết tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của nền võ học nước nhà.

Học võ cổ truyền ở đâu TPHCM

Tại trung tâm Dạy Võ PVH vẫn luôn chiêu sinh các khóa học võ cổ truyền dành cho trẻ em, người lớn tại nhà. Thời gian và địa điểm do học viên chủ động. Liên hệ Hotline: 0762 319 319 để được đăng ký lớp dạy võ cổ truyền Việt Nam ngay hôm nay.